Đến với núi non Yên Tử, mảnh đất gắn liền với tên tuổi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ông là vị vua anh minh, đồng thời là người sáng tạo thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cách đây hơn 700 năm. Thiền phái của ông vẫn tồn tại đến ngày nay. Khách du lịch hằng năm tìm đến Huệ Quang kim tháp, nhằm dâng hương tưởng nhớ . Tháp Huệ Quang là nơi tượng Phật Hoàng an toạ, khiến nơi này trở nên nổi tiếng. Tuy nhiên không phải người nào cũng biết rằng pho tượng đã hơn 300 năm gắn bó. Tượng Phật Hoàng gắn liền với những thăng trầm lịch sử của mảnh đất Yên Tử. Mới đây, tượng Phật Hoàng đã được công nhận là bảo vật quốc gia.
Tháp Huệ Quang – nơi thờ tượng Phật Hoàng
Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông được công nhận là bảo vật quốc gia cuối năm 2020. Hiện thờ tại tháp Huệ Quang, chùa Hoa Yên, khu di tích danh thắng Yên Tử. Theo nhiều tài liệu, xá lị của Phật hoàng Trần Nhân Tông tôn trí ở chùa Hoa Vân (chùa Hoa Yên hiện nay) vào năm 1326.
Tháp Huệ Quang (chùa Hoa Yên) được dựng lại vào thời Lê Trung hưng trên nền tháp cũ. Sau khi tòa tháp được xây dựng dưới thời Trần sập đổ. Khi dựng lại tháp, người xưa đã sử dụng một số cấu kiện tháp của thời trước, “thấy rõ nhất là những cấu kiện góc mái, bệ sen và đế tháp. Với trang trí hoa sen dây, tàu mái trang trí hình rồng thời Trần”. Theo ông Kiều Đinh Sơn, Giám đốc Bảo tàng Quảng Ninh. Ngôi tháp hiện nay nằm giữa khu vườn tháp, là một trong những tháp lớn nhất tại đây, xung quanh được bao bọc bằng hệ thống tường bao lợp ngói và những cây đại cổ, tạo thành khung cảnh rất độc đáo.
Ông Sơn cho hay đá xây dựng tháp có hai loại. Đều được sử dụng ở thời Trần và thời Lê Trung hưng. Được phân biệt qua các hoa văn trang trí trên đá. Mang nét đặc thù của mỗi thời. Còn pho tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông được tạc thủ công, bằng đá xanh; có cùng nguồn gốc, thành phần khoáng vật và hoá học với loại đá xanh xây tháp thời Trần.
Cấu trúc của tượng Phật Hoàng
Tạo tác của tượng
Tượng không phải được tạo tác từ thời Trần mà là thời Lê Trung hưng. Dựa vào căn cứ vào kỹ thuật, kích thước, phong cách trang trí trên tượng. Đây là một điển hình mẫu mực trong nghệ thuật điêu khắc tượng Phật Đại Việt thế kỷ 17. Tượng gồm hai phần, bệ và thân tượng. Cao tổng thể 83,8 cm, đầu rộng 13,5 cm, đế rộng 59 cm. Hai phần này được tạo tác riêng biệt. Sau đó gắn nối với nhau bằng hệ thống mộng và lỗ mộng.
Các nghệ nhân xưa kia tạc thô tượng, phác thảo hình khối, cấu trúc. Sau đó chỉnh tinh, đặc biệt là các nếp áo và hoa văn trang trí trên y trung và y hạ. Sau khi tạc xong, toàn bộ bề mặt được mài nhẵn, không để lại vết mài. Ông Kiều Đình Sơn nhận định, để làm được điều đó, nghệ nhân đã sử dụng phương pháp mài và đánh bóng bằng cát, nước và bàn mài. Ngay cả các vị trí hoa văn với các đường nét nhỏ, phạm vi hẹp cũng được mài nhẵn.
Thần thái của tượng và kết cấu phần sập
Tượng được tạc ở tư thế thiền buông thư. Kiểu ngồi bán kiết, bàn chân trái đặt lên đùi phải, lòng bàn chân ngửa lên. Thân thẳng vuông góc với bệ, đầu thẳng, mắt nhìn thẳng, mũi to, eo thon, ngực đầy nhưng không nổi khối. Bàn tay phải đặt trên đầu bàn chân trái, đầu ngón tay giữa và ngón cái chạm vào nhau; ngón trỏ đè lên trên, hai đốt trên của ngón út và ngón áp út gập lại. Thế tay này không có trong các thế thủ ấn của Phật giáo. Tay trái đặt trên chân trái, các ngón tay duỗi thẳng, không bắt ấn…
Tượng được thể hiện với gương mặt thanh tú, tai to, trán rộng, cổ cao nhiều ngấn thân hình thanh thoát mà dáng vẻ uy nghiêm. Các nếp áo, quần chồng xếp mềm mại, uyển chuyển. Họa tiết hoa văn trên vạt áo, gấu quần chi tiết và sắc nét. Tượng đặt trên một bệ hình chữ nhật kiểu “sập chân quỳ dạ cá”.
Sập gồm hai phần, phần mặt vuông phía trên nổi cao giống như “Bồ đoàn”. Mặt trước của Bồ đoàn chia làm 5 ô hộc nhỏ trang trí hoa văn, họa tiết hoa lá và hình rồng. Hai mặt bên tạo thành một hộc hình chữ nhật, trong lòng trang trí hoa sen và dây lá, mặt sau để trơn.
Những pho tượng cổ tại Quảng Ninh
Ông Kiều Đinh Sơn nói hầu khắp chùa lớn của Phật giáo Trúc Lâm đều thờ phụng Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Dưới hai hình thức chính là long ngai bài vị và tượng. Hiện còn hai bộ Tam Tổ Trúc Lâm (ba vị tổ thiền phái trúc lâm) đầy đủ và cổ nhất tại chùa Phổ Minh (Nam Định) và tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Tất cả đều được tạo dựng trong khoảng thế kỷ 17 – 18, làm bằng gỗ và được sơn thếp.
Tuy nhiên, tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông ở chùa Phổ Minh được tạc theo thế sư tử nằm. Mô tả khoảnh khắc ngài nhập niết bàn, còn tượng tại chùa Vĩnh Nghiêm thì thể hiện ngài trong tư thế tọa thiền ở thế buông thư trên bệ vuông, thân khoác y cửu điều, tay phải lần tràng hạt. Ngoài ra, khảo cổ học cũng phát hiện hai pho tượng bằng đá tại khu nhà tổ chùa Hồ Thiên (Đông Triều, Quảng Ninh), trong đó có một pho được cho là tượng Phật Hoàng lại được tạc ở tư thế tọa thiền trên đài sen, hai tay bắt ấn tam muội, thân khoác y cửu điều.
Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông là độc bản
“Qua so sánh cho thấy, tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại tháp Huệ Quang, Yên Tử là độc bản, cũng là pho tượng cổ nhất về ngài, không trùng lặp với bất kỳ pho tượng nào khác về cả tư thế, pháp phục, họa tiết trang trí và thậm chí là cả hình tướng”, ông Sơn nói.
Theo ông, pho tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông ở Yên Tử “thể hiện hết tinh thần, tướng mạo của ngài nên gần đây được nhân bản ở nhiều nơi, nhưng các phiên bản cũng không giống hoàn toàn với tượng gốc”.
Yên Tử là quần thể di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng của cả nước. Hơn 700 năm trước, vua Trần Nhân Tông sau hai lần lãnh đạo quân Đại Việt đánh thắng giặc Nguyên Mông đã từ bỏ ngai vàng về tu hành, lập nên Thiền phái Trúc Lâm, dòng Thiền đầu tiên và duy nhất có sư tổ là hoàng đế Việt Nam.